Thiết kế Shiratsuyu_(lớp_tàu_khu_trục)

Rút kinh nghiệm từ sự cố Tomozuru và sau đó là sự cố hạm đội bốn, lớp Shiratsuyu được thiết kế để khắc phục vấn đề của lớp Hatsuharu tiền nhiệm. Trong cách bố trí chung, những chiếc trong lớp Shiratsuyu gần giống với lớp phụ Ariake, phiên bản sau cùng của lớp Hatsuharu, chỉ khác biệt thiết kế cầu tàu gọn hơn và kiểu dáng cùng độ nghiêng của các ống khói. Lườn tàu giữ lại cấu hình chung của lớp Hatsuharu với một sàn trước kéo dài, và mũi tàu được loe ra rõ rệt để cải thiện tính năng đi biển ở tốc độ cao bằng cách tăng độ nổi và giảm thiểu bụi nước trên sàn tàu.

Lớp Shiratsuyu là những tàu chiến Nhật Bản đầu tiên được hoàn tất với bệ phóng ngư lôi bốn ống và liên lạc điện thoại nội bộ đến trạm điều khiển ngư lôi. Giống như lớp Hatsuharu, các ống phóng ngư lôi được cung cấp một lớp vỏ bảo vệ cho phép sử dụng chúng ngay cả khi biển động và bảo vệ khỏi những hư hại do mảnh đạn pháo.

Động lực

Lớp Shiratsuyu, giống như lớp Hatsuharu dẫn trước, mang hai bộ turbine hơi nước hộp số Kampon, mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Mỗi bộ bao gồm một turbine áp lực thấp và một áp lực cao, cùng với một turbine đường trương kết nối với turbine áp lực cao. Các turbine trên được nối với trục chân vịt bởi một hộp số giảm tốc hai bánh răng. Chân vịt có đường kính 3,05 m (10,0 ft) và bước xoắn 3,7 m (12 ft). Tổng công suất của lớp Shiratsuyu chỉ có 42.000 hp (31.000 kW) so với 50.000 hp (37.000 kW) của lớp Fubuki dẫn trước, nhưng hệ thống động lực nhẹ hơn và có hiệu suất tốt hơn đáng kể. Hệ thống động lực của Shiratsuyu chỉ nặng 106 tấn (104 tấn Anh; 117 tấn thiếu) so với 144 tấn (142 tấn Anh; 159 tấn thiếu) của Fubuki, tức là 396 mã lực càng mỗi tấn so với 347 mã lực mỗi tấn trên những lớp tàu trước đó.[4]

Tương tự, ba nồi hơi Kampon kiểu Ro-Gō sử dụng cho lớp Shiratsuyu nặng 50 tấn (49 tấn Anh; 55 tấn thiếu) so với nồi hơi nặng 51 tấn (50 tấn Anh; 56 tấn thiếu) của lớp Fubuki, nhưng sản sinh công suất 14.000 hp (10.000 kW) mỗi chiếc trong khi nồi hơi cũ chỉ có 12.500 hp (9.300 kW). Điều này đã cung cấp một chỉ số 3,6 kg mỗi mã lực trên chiếc Shiratsuyu so với 4,1 kg mỗi mã lực trước đây. Thiết kế mới hơn của nồi hơi cũng sử dụng hơi nước ở áp suất 20 ba (290 psi) giống như kiểu cũ, nhưng áp dụng kỹ thuật siêu đốt nóng để cải thiện hiệu suất trong khi các nồi hơi cũ đơn giản chỉ sử dụng hơi nước bảo hòa.[5]

Một máy phát điện turbine 100 kW được đặt sau hộp số giảm tốc trong một khoang riêng biệt, và hai máy phát điện diesel 40 kW được đặt giữa các trục chân vịt. Vào lúc hoàn tất, lớp Shiratsuyu có tầm hoạt động 4.000 hải lý (7.400 km) ở tốc độ 18 hải lý trên giờ (33 km/h) với 460 tấn (450 tấn Anh; 510 tấn thiếu) nhiên liệu.[6]

Vũ khí trang bị

Những tàu khu trục lớp Hatsuharu sử dụng cùng kiểu Hải pháo 127 mm/50 Loại 3 đã trang bị cho lớp Fubuki, nhưng mọi tháp pháo đều có thể nâng đến một góc 75°, cho phép dàn pháo chính có khả năng tối thiểu đương đầu với máy bay. Trong chiến tranh, tháp pháo nòng đơn được tháo dỡ trên mọi chiếc còn lại, thay thế bởi 13 đến 21 pháo phòng không Hotchkiss Kiểu 96 25 mm trên những tháp súng nòng đôi và ba nòng. Những khẩu đội 25 mm vận hành bằng điện này không thỏa đáng, vì tốc độ xoay và nâng của chúng quá chậm không thể đối đầu với máy bay tốc độ cao,[7] nên có thêm các khẩu đội nòng đơn được trang bị cho các con tàu vào năm cuối cùng của chiến tranh.

Ngư lôi 610 mm Kiểu 90 được trang bị trên các ống phóng Kiểu 92 bốn nòng, có nguồn gốc từ loại ống phóng Kiểu 89 nòng đôi được sử dụng trên lớp tàu tuần dương hạng nặng Takao. Các tấm chắn được lắp đặt cho cả bệ phóng ngư lôi lẫn kho chứa ngư lôi để bảo vệ chúng không bị ảnh hưởng bởi thời tiết và sự bắn phá của máy bay. Thoạt tiên các tấm chắn được làm bằng duralumin để tiết kiệm trọng lượng, nhưng chúng nhanh chóng bị ăn mòn nên cần có biện pháp thay thế. Thép "NiCrMo", lấy ra từ các buồng hơi của những quả ngư lôi lạc hậu với độ dày 3 mm, được chọn dùng làm tấm chắn mới để tiết kiệm trọng lượng. Nó được xoay bằng một hệ thống điện-thủy lực, và có thể xoay 360° trong vòng 25 giây; nếu hệ thống quay tay dự phòng được sử dụng, thời gian cần đến là hai phút. Mỗi ống phóng ngư lôi có thể nạp lại trong vòng 23 giây sử dụng dây tời.[8]

Thoạt tiên chỉ có 18 mìn sâu được mang theo trên một đường ray phía đuôi tàu, nhưng được tăng lên 36 quả vào mùa Thu năm 1942. Hình như không có thiết bị sonar hay bộ dò âm dưới nước nào được trang bị cho đến khi chiến tranh nổ ra, khi bộ sonar Kiểu 93 và bộ dò âm dưới nước Kiểu 93 được bổ sung. Cả hai đều kém hơn so với những thiết kế đương thời của Anh và Mỹ.[9]

Radar

Radar đã không được trang bị cho những chiếc còn lại của lớp này cho đến tận cuối chiến tranh, có lẽ vào cuối năm 1944. Chúng được gắn một radar Kiểu 22 trên cột ăn-ten trước, Kiểu 13 trên cột ăn-ten chính và một thiết bị chống radar Kiểu E-27 cao bên trên cột ăn-ten trước.[9]

Liên quan